1. Cách phân biệt nhanh các loài ba ba
- Ba ba
là động vật thuộc lớp bò sát, bộ rùa, họ ba ba Tryonychidae. Trong họ
ba ba có nhiều loài. Các loài thường gặp trên thị trường ba ba ở nước ta
có ba ba hoa, ba ba gai, lẹp suối và cua đinh.

- Ba ba hoa còn gọi là ba ba trơn, phân bố tự nhiên chủ yếu ở các vùng nước ngọt thuộc đồng bằng sông Hồng.
- Ba ba gai phân bố tự nhiên chủ yếu ở sông, suối, đầm hồ, miền núi phía Bắc.
- Lẹp
suối, còn gọi là ba ba suối, thấy ở các suối nhỏ miền núi phía Bắc, số
lượng ít hơn ba ba gai, cỡ nhỏ hơn hai loài ba ba trên.
- Cua
đinh, phân bố tự nhiên ở vùng Tây Nguyên, Đông và Tây Nam bộ, dân các
tỉnh phía Bắc gọi là ba ba Nam bộ, ba ba miền Nam để phân biệt với các
loài ba ba ở phía Bắc.
- Về
tên khoa học của các loài ba ba trên, một số tài liệu phân loại đã ghi:
Ba ba hoa là Trionyx sinensis, ba ba gai là Tryonyx steinachderi, ba ba
Nam bộ là Trionyx cartilagineus. Chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu về
việc xác định tên khoa học cho ba ba và cách phân loại chi tiết 4 loài
ba ba trên. Dưới đây chỉ giới thiệu cách phân biệt nhanh nhất, giúp cho
những người nuôi ba ba và người mua ba ba khỏi nhầm lẫn.
- Cách phân biệt nhanh nhất là dựa vào màu da bụng và hoa vân trên bụng.
- Da
bụng ba ba hoa lúc nhỏ màu đỏ, khi lớn màu đỏ nhạt dần, khi đạt cỡ 2 kg
trở lên gần như màu trắng. Trên nền da bụng điểm khoảng trên dưới 10
chấm đen to và đậm, vị trí từng chấm tương đối cố định, các chấm đen này
loang to nhưng nhạt dần khi ba ba lớn đần, khi đạt cỡ trên 2 kg phải
quan sát kỹ mới thấy rõ.
- Da bụng ba ba gai màu xám trắng, trên điểm rất nhiều chấm đen nhỏ, làm da bụng có màu xám đen lúc nhỏ và xám trắng lúc lớn.
- Ba ba suối da bụng màu vàng bóng, không có chấm đen.
- Ba ba Nam bộ da bụng màu trắng, không có chấm đen.
- Ngoài da bụng, có thể căn cứ vào các nốt sần trên lưng, trên diềm cổ, và trên cổ của ba ba để phân biệt chúng.
2. Tập tính sinh sống
- Ba ba có một số tập tính sinh sống đặc biệt:
+ Tuy là động vật sống hoang dã, nhưng rất dễ nuôi trong ao, bể nhỏ.
+ Sống
dưới nước là chính, nhưng có thể sống trên cạn và có lúc rất cần sống
trên cạn. Ba ba thở bằng phổi là chính nên thỉnh thoảng phải nhô lên mặt
nước để hít thở không khí. Mùa đông lạnh, cường độ hô hấp nhỏ, ba ba có
thể rút trong bùn ở đáy ao, dựa vào cơ quan hô hấp phụ trong cổ họng để
thở, cơ quan hô hấp phụ tựa mang cá, ba ba lấy oxy trong nước và thải
CO2 trong máu vào nước qua cơ quan này. Ba ba lên khỏi mặt nước khi có
nhu cầu di chuyển, đẻ trứng, phơi lưng…
+ Vừa
biết bơi, vừa biết bò, leo, biết vùi mình nằm trong bùn cát, đặc biệt có
thể đào hang trú ẩn, đào khoét bờ ao chui sang ao bên cạnh.
- Ba ba
nhút nhát lại vừa hung dữ. Ba ba thích sống nơi yên tĩnh, ít tiếng ồn,
kín đáo. Khi thấy có tiếng động mạnh, có bóng người hay bóng súc vật đến
gần, chúng lập tức nhảy xuống nước lẩn trốn. Tính hung dữ của ba ba thể
hiện ở chỗ hay cắn nhau rất đau, con lớn hay cắn và ăn tranh mồi của
con bé, bị đói lâu có thể ăn thịt con bé. Khi có người hoặc động vật
muốn bắt nó, nó có phản ứng tự vệ rất nhanh là vươn cổ dài ra cắn.
3.Tính ăn
- Ba ba thuộc loài ăn thức ăn động vật.
- Ngay
sau khi nở một vài giờ, ba ba đã biết tìm mồi ăn. Trong tự nhiên thức ăn
chính trong mấy ngày mới nở là động vật phù du ( thuỷ trần ), giun nước
( trùng chỉ ) và giun đất loại nhỏ. Khi lớn ba ba ăn cá, tép, cua, ốc,
giun đất, trai, hến… Trong điều kiện nuôi dưỡng, có thể cho ba ba ăn
thêm thịt của nhiều loại động vật rẻ tiền khác, đồng thời có thể huấn
luyện cho ba ba biết ăn thức ăn chế biến ( thức ăn công nghiệp) ngay từ
giai đoạn còn nhỏ.
4. Sinh trưởng
- Ba ba
hoa lúc mới nở có quy cỡ từ 3 – 6g/ con, Ba ba gai và ba ba Nam bộ cỡ
lớn hơn. Tốc độ lớn của ba ba phụ thuộc vào loài, kỹ thuật nuôi và điều
kiện môi trường nuôi.
- Từ cỡ
giống 100 – 200g/con, sau khi nuôi 6 – 8 tháng, ba ba hoa có thể đạt cỡ
0,5 – 0,8kg/con đối với miền Bắc; từ 0,8 – 1kg/ con đối với miền Nam.
Ba ba gai nuôi có tốc độ lớn nhanh gấp đôi hoặc trên gấp đôi ba ba hoa.
5. Sinh sản
- Ba ba
hoa cỡ 0,5kg mới bắt đầu đẻ trứng lần đầu, tuổi tương ứng là 2 năm. Ba
ba gai cỡ 2 kg trở lên mới bắt đầu đẻ trứng. Trứng ba ba thụ tinh trong.
- Ba ba
sống dưới nước, nhưng đẻ trứng trên cạn. Đến mùa đẻ, thường là vào mùa
mưa, ba ba ban đêm bò lên bờ sông, bờ ao, hồ tìm chỗ kín đáo, có đất cát
ẩm và tơi xốp bới tổ đẻ trứng. đẻ xong chúng dùng 2 chân trước cào đất
lắp kín trứng, dùng bụng xoa nhẵn mặt đất ổ trứng rồi xuống nước sinh
sống, không biết ấp trứng. trứng nằm trong ổ, trải qua mưa nắng và các
điều kiện không thuận lợi về dịch hại, sau 50-60 ngày nở thành ba ba
con, điều kiện ấp tự nhiên này tỷ lệ nở rất thấp. Trong điều kiện nuôi,
con người có thể tạo chỗ cho ba ba đẻ thuận lợi hơn và có nhiều phương
pháp ấp trứng đảm bảo tỷ lệ nở cao trên dưới 90%.
- Trứng ba ba phần lớn hình tròn như hòn bi, màu trắng.
- Ba ba càng lớn đẻ trứng càng to và càng nhiều.
- Ba ba
hoa cỡ khoảng 500g đẻ 1 lứa từ 4 – 6 trứng, đường kính trứng từ
17-19mm, trọng lượng 3 – 4g/quả. Ba ba hoa cỡ 1 – 1,5kg mỗi lứa đẻ từ 8 –
15 trứng, đường kính trứng 20 – 23mm, trọng lượng 4-7g; ba ba cỡ 2 –
3kg có thể đẻ 20 – 30 trứng một lứa. Trứng ba ba gai lớn hơn trứng ba ba
hoa. Ba ba Nam bộ cỡ 4 – 4,5kg/con, đẻ trứng nặng từ 20 – 25g/quả.
- Ba ba
có thể đẻ từ 2 – 5 lứa trong 1 năm, ba ba cái càng lớn, chế độ nuôi vỗ
cho ăn càng tốt đẻ càng nhiều lứa, mỗi lứa cách nhau từ 25 – 30 ngày.
- Tại
các tỉnh phía Bắc, một số gia đình có sổ ghi chép theo dõi, bình quân cả
đàn ba ba nuôi trong ao 1 năm đẻ 3 – 5 lứa, số trứng ba ba đẻ thu được
từ 40 – 55 quả trên 1kg ba ba cái cỡ từ 1 – 1,5kg.
6. Tính thời vụ rất rõ rệt giữa 2 vùng
- Ba ba
hoa nuôi ở các tỉnh phía Bắc: một số con đẻ sớm vào cuối tháng 3 hoặc
đầu tháng 4 (dương lịch), đẻ rộ trong các tháng 5 – 7 sau đó đẻ rải rác
tiếp các tháng 8 đến cuối tháng 10 là kết thúc vụ đẻ.
- Thời
vụ nuôi bắt đầu vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 12. Từ giữa tháng 12 đến
hết tháng 2 thời tiết lạnh nhiệt độ nước dưới 18 độ C, có khi dưới 15 độ
C ba ba không ăn và không lớn. Các tháng ba ba sinh trưởng nhanh nhất
là từ tháng 5 đến tháng 10.
- Ba ba
hoa nuôi ở các tỉnh miền Trung và phía Nam: hầu như ăn mồi quanh năm,
sinh trưởng liên tục và đẻ quanh năm, do khí hậu ấm áp quanh năm không
có mùa đông lạnh như các tỉnh phía Bắc. Trong vùng này, nhiệt độ nước
các ao nuôi ba ba trong năm dao động chủ yếu trong phạm vi từ 24 – 32 độ
C, ít khi dưới 22 độ C hoặc trên 33 độ C. Những nơi có điều kiện cấp
nước tốt có thể khống chế được nhiệt độ nước trong phạm vi thích hợp
nhất từ 26 – 30 độ C.