Tam thất hoang
Tên khoa học: Panax bipinnat-ifidus Seem.-Aralia bipinnatifida C.B Clarkr – Panax pseudogin - seng Wall. Var bipinnat-ifidus
Tên thường gọi: Vũ diệp tam thất, Sâm vũ điệp, sâm hai lần kép, tam thất hoang, tam thất lá xẻ.
Mô tả: Cây thảo sống
nhiều năm; rễ dạng thân dài, mọc bò, rải rác có đốt phình tròn; rễ hình
sợi nhỏ, không phình to thành chất thịt. Thân cao 30 – 50cm, Lá dạng bàn
tay, xếp 3 – 5 cái ở thân ngọn, lá chét 5 – 7, dạng màng mỏng, hình bầu
dục, mép xẻ thuỳ dạng răng, dài 5 - 9cm, rộng 2 - 4cm, chóp có mũi dài,
gốc hình nêm men xuống, trên các gân của mặt trên rải rác có lông cứng,
mặt dưới thông thường không lông; cuống lá chét dài đến 2cm.
Cụm hoa dạng tán đơn ở ngọn, có khi có
một tán nhỏ mọc đối ở phía dưới; hoa nhỏ màu lục nhạt, đài có mép chia 5
răng; cánh hoa 5; 5 nhị, bầu hạ, 2 ô, ít khi 3 - 4 ô, tách ra hoặc dính
nhau ở phần gốc, phần giữa trở lên rời nhau. Quả hình cầu dẹt, khi chín
màu đỏ, ở đỉnh có những chấm đen.
Phân bố nhiều nơi ở Trung Quốc (Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Thiểm Tây và Tây Tạng); ở nước ta chỉ gặp ở vùng Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Sinh thái: Cây mọc dưới tán rừng và trên đồi cỏ. Có nhiều quả tháng 7 - 9.
Công dụng: ở Trung
Quốc, thân rễ, rễ củ của cây được dùng làm thuốc chỉ huyết, định thống.
Tư bổ cường tráng, tiêu viêm chỉ thống, khư ứ sinh tân, chỉ huyết.
Dùng trị thổ huyết, nục huyết, đòn ngã
tổn thương đau eo lưng. Người ta cũng dùng nó như tam thất. Làm thuốc bổ
chữa thiếu máu, xanh xao gầy còm nhất là đối với phụ nữ sau khi sinh
đẻ; còn có tác dụng kích thích sinh dục và được dùng trong điều trị vô
sinh.
PANAX pseudoginseng wall
Tên khoa học: Panax shinseng Nees
var.nepalensis nees-Aralia pseudoginseng Benth. Ex C.B. Clarke-Aralia
quinque-folia Decne.et Planch.var.pseudoginseng (Wall) Burkill
Aralia quinquefola Decne.et Planch.var.notoginseng Burkill.
Q.quinque Decne.et Planch.var.elegantior Burkill
Lily, M.Perry nêu rằng Hui Lin Li (1942)
trong tổng quan về học Araliaceae cho rằng bài này gồm nhiều thứ phân
bố ở Trung, Tây và Nam Trung Quốc cho tới Ấn Độ. Một số tác giả đồng ý
với quan điểm đó. Alfred Pételot nêu Tam thất với tên Panax repens Max.,
Aralia repens Max., Nguyễn Văn Dương nêu các tên này là tên đồng nghĩa
của Panax pseudogisneng; còn Lily, M.Perry nêu tên đồng nghĩa của Panax
japonicus C.A. Mey.
Tên thường gọi: Tam thất, Kim bất hoán, Điền thất, Sâm tam thất, Sâm.
Mô tả: Cây thảo sống
nhiều năm, rễ chính chất nạc hoặc không, đơn sinh hoặc ít nhiều thành
đám, hình cọc sợi; thân rễ ngắn hoặc dài; thân cao 30 - 60 cm. Lá kép
dạng bàn tay gồm 3 - 6 lá mọc vòng ở ngọn thân; lá chét 3-7, dạng màng,
phần giữa phiến mở rộng, hình bầu dục dài đến hình trứng ngược dạng bầu
dục dài, dài 8-10cm, rộng 2,5-3,5cm, ở chóp có mũi nhọn tới mũi nhọn
dài, gốc hình tròn tới hình nêm rộng, kéo dài về phía dưới, mép có răng
cưa, hai mặt có lông cứng trên các gân, cuống lá chét dài đến 2cm.
Cụm hoa dạng tán đơn mọc ở ngọn; hoa
nhỏ màu vàng nhạt; mép đài chia 5 răng; cánh hoa 5; nhị 5; bầu hạ, 2-3ô;
vòi nhuỵ2-3, tách rời nhau hoặc dính nhau ở phần gốc hoặc dính đến phần
giữa. Quả hính cầu dẹt, khi chín có màu đỏ.
Phân bố: Cây mọc ở vùng
núi Khasia, Nêpan, Xích Kim, Butan, ở Tây Tạng, Tứ Xuyên, Vân Nam,
Quảng Tây, Hồ Nam; tại Đông Nam Vân Nam và Tây Nam Quảng Tây có trồng
nhiều. ở Việt Nam có gặp ở Lào Cai, Sa Pa, Hà Giang (Phó Bảng, So Phin,
Pho Cao), Cao Bằng (Thong Nong, Tac Te), Gia Lai, Kontum.
Sinh thái: Cây mọc
trong rừng thưa vùng núi cao và được trồng nhiều ở Hà Giang (Quản Bạ,
Đồng Văn, Mèo Vạc), Cao Bằng (Bảo Lạc, Hà Quảng, Thông Nông) và Lào Cai
(Bát Xát, Mường Khương, Bắc Hà). Nhân giống bằng hạt. Từ khi gieo hạt
đến khi cây non mọc phải mất 3 tháng sau đó mới đem cấy vào đất trồng đã
được chuẩn bị. Cây trồng 3 năm mới ra hoa, sau đó ra hoa kết quả đều
hàng năm. Cây trồng được 7 năm mới có thể thu hoạch củ có chất lượng. Số
3 và số 7 ứng với tam (ba) và thất (bảy), liên hệ với thời gian 3 năm
sau khi gieo cây mới có hoa quả và 7 năm từ khi gieo hạt đến khi cây
cung cấp rễ thương phẩm.
Công dụng: Thân rễ (củ)
Tam thất được sử dụng để trị nhiều bệnh, đã được giới thiệu trong nhiều
sách về cây thuốc ở nước ta. Do giá trị sử dụng mà vị Tam thất có tên
là Kim bất hoán nghĩa là vàng không đổi. Người trồng tam thất cũng bố
trí vườn và nương trồng có khi có đến 2 lớp rào bao kín chung quanh để
bảo vệ, họ còn nuôi cả chó dữ để canh phòng kẻ gian.
Ngoài ra củ, thân lá và hoa tam thất
cũng được đồng bào Mông nấu cao, pha nước uống có tác dụng bổ dưỡng giúp
ăn ngon, ngủ yên. Còn có tác dụng phòng sốt rét, giải nhiệt hoặc bôi
lên vết thương cho khỏi sưng tấy. Lá hãm uống có mùi vị như Sâm. Hoa Tam
Thất phơi khô dùng vào thuốc thang cũng có hoạt lực như củ, với liều
cao hơn củ độ 50%.
Caythuocquy.info.vn