Th.s Võ Vă Ninh & Th.s Bùi Thị Kim Phụng, ĐH Nông Lâm TP.HCM
3. CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG NÁI SAU KHI ĐẺ VÀ ĐANG NUÔI CON
Sau khi đẻ, nái thường mệt, ăn ít hoặc không ăn nhưng phải cung cấp đầy đủ nước uống. Nếu có điều kiện nên cho nái uống nước cháo tinh bột gạo, bắp, hay cám để cung năng lượng (chất bột đường) bù đắp cho cơ thể bị mất sau khi đẻ.
Định lượng thức ăn hàng ngày theo khả năng tiết sữa của nái và sức bú của heo con, nên tăng lượng thức ăn dần dần để tránh tình trạng nái dư sữa. Lượng thức ăn trung bình cho nái trong thời kỳ nuôi con khoảng 4,5 kg/con mỗi ngày.
Cần quan sát kỹ thay đổi thể vóc của nái để tăng giảm định mức ăn. Nái mập nên hạn chế thức ăn nếu nuôi ít con. Nái gầy nuôi nhiều con nên cho ăn tự do theo nhu cầu vì sự cân bằng dưỡng chất trong thức ăn hàng ngày không đủ bù lại với nhu cầu tiết sữa để nuôi con; nếu không nái sẽ bị suy kiệt sau thời gian nuôi con, chậm động dục lại sau khi cai sữa con. Trong thời kỳ nuôi con các nang noãn vẫn phát triển, dinh dưỡng tốt thì nái đẻ lứa sau mới đạt nhiều con.
Sau khi đẻ cần theo dõi nhiệt độ cơ thể nái, thông thường thân nhiệt nái khoảng 390C. Nếu thân nhiệt trên 400C là tình trạng báo động do nhiễm trùng sau đẻ, phải có biện pháp điều trị thích hợp và kịp thời (hội chứng MMA). Cần phân biệt hội chứng này với sốt sữa (milk fever) để chữa trị đúng cách. Sốt sữa trên heo nái xảy ra ít phổ biến hơn bò sữa. Dấu hiệu của sốt sữa trên heo nái là bầu vú căng, có thể gây đau nhưng không viêm đỏ. Có thể chống sốt sữa bằng chích canxi gluconat vào tĩnh mạch, tốt nhất là truyền dịch.
Phải theo dõi dịch hậu sản bài xuất ở bộ phận sinh dục nái khi đẻ. Nái đẻ bình thường thì dịch hậu sản ít, trong hoặc hơi hồng. Nếu dịch hậu sản quá nhiều, màu trắng đục, hoặc vàng, hoặc xanh nhạt, hoặc đỏ hồng, lợn cợn như mủ, hôi thối… là do nhiễm trùng nặng trong bộ phận sinh dục cái, cần có biện pháp can thiệp. Điều trị bằng cách tiêm kháng sinh kết hợp với bơm thụt rửa bằng thuốc tím hay chất sát trùng. Các biện pháp này có thể giúp điều trị khỏi sự viêm nhiễm nhưng thường có thể gây tắc vòi trứng, viêm tắc tử cung không thể thụ tinh trong các lần động dục kế tiếp. Biện pháp tốt nhất là tiêm oxytocin,sau đó 1-2 giờ lại bơm dung dịch kháng sinh thích hợp vào bộ phận sinh dục nái. Hai biện pháp luân phiên này đem lại hiệu quả hơn chỉ đơn thuần thụt rửa tử cung âm đạo.
Phải quan sát sự xuống sữa của nái mỗi khi gọi con cho bú qua tiếng ịt sữa. Thông thường khi nái sắp cho con bú, nái trở mình nằm nghiêng, gọi con bằng tiếng ít ịt rời rạc. Nghe tiếng ịt, heo con thức dậy, chạy đến bên vú mẹ ủi cắn nhẹ trên núm vú, quầng núm vú. Khi tất cả các con đều tập trung cùng động tác ủi gặm vú, tiếng ịt sữa của nái từ rời rạc chuyển thành nhanh hơn, đến khi tiếng ịt sữa nhanh liên tục rồi im là lúc sữa đang xuống, heo con nút vú liên tục, đây là thời điểm để đoán biết nái có nhiều sữa hay không. Nếu thời gian này kéo dài là nái nhiều sữa, nếu diễn ra nhanh hoặc sau khi bú xong heo con còn cố nút vú là sữa ít. Có thể đánh dấu heo con hoặc cân toàn ổ trước và sau khi bú để biết được khả năng tiết sữa của heo nái. Thông thường giai đoạn xuống sữa kéo dài từ 30 - 60 giây. Lượng sữa thải ra cho mỗi heo con rất khác nhau tùy theo cá thể nái, giống, lứa đẻ, tình trạng dinh dưỡng, khí hậu thời tiết….
Trong vòng 2-3 ngày sau khi đẻ, mỗi heo con quen bú 1-2 vú mà thôi. Nếu sau khi đẻ, các vú đều đồng loạt tiết sữa, thì sau 48 giờ những vú không có heo con bú sẽ tự động ngưng tiết sữa và teo lại. Nếu vú bị viêm gây hư hỏng tuyến sữa, vú đó vĩnh viễn không tiết sữa nữa.
Thông thường nái đẻ tốt, sự tiết sữa tăng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ 21 rồi giảm dần. Do đó ở tuần lễ thứ tư có sự khủng hoảng vì thiếu sữa mẹ khi đàn heo con đang sức tăng trưởng cao. Để tránh hiện tương đàn con tăng trưởng chậm lại, tập heo con ăn sớm là một biện pháp kỹ thuật cần thiết.
Để đánh giá khả năng tiết sữa của nái người ta dùng công thức sau:
Sản lượng sữa (kg) = Tổng tăng trọng (kg) của đàn heo con rồi nhân với 3
Như vậy để heo con tăng lên 1 kg cần đến 3 kg sữa. Người ta thường tính sản lượng sữa của heo nái 7 ngày nuôi con bằng cách cân trọng lượng toàn ổ heo con 7 ngày tuổi rồi trừ cho trọng lượng heo con sơ sinh toàn ổ rồi nhân với 3. Sản lượng sữa của nái sau 7 ngày thường được các nhà chăn nuôi khảo sát hơn vì heo con chưa biết ăn gì ngoài sữa mẹ, nên tăng trọng của chúng là do sữa mẹ mà thôi. Ngoài ra người ta cũng có thể tính sản lượng sữa của nái khi heo con 21 ngày tuổi, thời kỳ này bị ảnh hưởng một phần của thức ăn.
Người ta cũng tính sản lượng sữa cho mỗi lần xuống sữa của nái bằng cách cân trọng lượng toàn ổ heo con trước và sau khi bú. Hiệu số của hai giá trị này là trọng lượng sữa nái tiết ra cho một lần bú mẹ. Đếm số lần heo nái cho con bú trong ngày ta sẽ tính được sản lượng sữa của nái trong ngày.
Để nái tiết sữa tốt, cần tạo bầu tiểu khí hậu tốt cho nái, không quá nóng, quá lạnh, ẩm thấp, không khí quá khô, tránh gió lùa mưa tạt. Thức ăn của nái phải đủ chất, không hư mốc, vón cục, phải đủ lượng xơ cần thiết tránh táo bón. Luôn cung cấp đủ nước.
Khả năng tiết sữa của nái thay đổi theo từng cá thể, giống, lứa đẻ, số con nuôi, tình trạng dinh dưỡng, khí hậu thời tiết, biện pháp chăm sóc. Trong 3 nhóm giống Yorkshire, Landrace và Duroc thì Landrace có khả năng tiết sữa tốt nhưng phải thỏa mãn đủ nhu cầu dinh dưỡng, Duroc kém khả năng tiết sữa nhất. Thông thường nái đẻ lứa 1, lứa 2 thường kém khả năng tiết sữa hơn lứa thứ 3, thứ 4 nhưng những lứa đẻ sau đó thường bắt đầu giảm. Đôi khi cũng có những nái đẻ lứa 6, 7 vẫn còn tiết sữa tốt. Nái đẻ trong mùa nóng (tháng 4, tháng 5 dương lịch) kém sữa nhất, nái đẻ trong tháng 12, tháng 1 thì tiết sữa tốt hơn. Những nái nuôi dưới 6 con/ổ tiết sữa ít hơn những nái nuôi 9 - 10 con/ ổ, nái nuôi quá nhiều con thì khả năng tiết sữa ít đi vì cơ thể nái gầy sút nhanh.
Nái nuôi con trong tháng thứ nhất thường giảm khoảng 10% trọng lượng cơ thể. Thức ăn xấu, thiếu dưỡng chất có thể làm nái giảm trọng nhiều hơn và nái chậm động dục trở lại sau khi cai sữa.
Trong thời gian tiết sữa nuôi con, có sự cân bằng âm giữa lượng canxi, phốt-pho, chất béo giữa khẩu phần ăn với lượng sữa nuôi con. Nái phải lấy canxi, phốt-pho, chất béo dự trữ trong cơ thể để sản xuất sữa. Như vậy, trong thời gian nuôi con nái giảm nhanh lớp mỡ bọc thân (mỡ dưới da), xương trở nên xốp hơn, nái yếu chân nên dễ bị bại. Tuy nhiên khẩu phần quá thừa canxi, phốt-pho, chất béo cũng không tốt. Tương tự, gia tăng hàm lượng chất sắt trong khẩu phần ăn của nái cũng không làm tăng chất sắt trong sữa để giúp heo con tránh sự thiếu sắt ở tuần lễ thứ 2, thứ 3 khi nuôi giam trên chuồng xi măng. Bổ sung chế phẩm chứa iốt cho nái để tăng hoạt động tuyến giáp cũng giúp cho nái tiết sữa tốt hơn, nhưng phải thận trọng không được dùng quá liều. Các chế phẩm chứa iốt không thể trị chứng viêm vú, sốt sữa, tắc sữa hoặc tuyến sữa bị teo.
4. CHĂM SÓC HEO CON BÚ MẸ (HEO CON THEO MẸ)
Heo con theo mẹ cần được nhốt riêng và cho bú theo cữ khoảng 3 - 4 ngày sau khi sinh để tránh tình trạng nái mệt đè đạp chết con, và dễ theo dõi tình trạng tiết sữa của nái. Sử dụng chuồng nái đẻ tuy tiết kiệm nhân công nhưng cũng khó tránh tình trạng nái đè đạp con. Mỗi cữ bú thường cách nhau 1 giờ 30 hoặc 2 giờ tùy theo tình trạng tiết sữa của nái.
Nái dư sữa (bệ sữa phát triển to), heo con bú không hết dễ gây tình trạng đọng sữa gây viêm vú. Trường hợp này, nên hạn chế thức ăn cho nái và cho heo con bú nhiều cữ hơn. Sau khi heo con bú xong, gom chúng vào ổ úm cũng là biện pháp tốt để tránh tình trạng heo con bị lạnh về đêm, dễ gây rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên ổ úm phải thoát nước tốt để tránh nhiễm bẩn do phân và nước tiểu. Mỗi lần cho heo con bú và gom vào ổ úm, người chăm sóc phải quan sát kỹ tình trạng sức khỏe heo con, cần tái sát trùng rốn, kiểm tra sức bú của heo con, sự xuống sữa của nái, tình trạng tiêu chảy của heo con, nhịp thở và phát hiện sớm những con thiếu vú mẹ, vú mẹ không sữa, để sớm ghép sang đàn khác.
Sau 3 - 4 ngày nái khỏe, có thể cho heo con ra vào ổ úm tự do. Trong vòng 3 ngày sau khi sinh, nếu heo con không phát triển thể vóc, da lông không bóng mượt mà vẫn còn đỏ, yếu ớt, da nhăn, nằm chồng lên nhau, gầy còm trơ xương… là tình trạng nái mất sữa, kém sữa, cần có biện pháp can thiệp kịp thời.
Khi heo con 3 ngày tuổi, tiến hành tiêm chất sắt (khoảng 1 ml chế phẩm chứa 100 mg Fe+++/con) và tiến hành tiêm lặp lại lần hai cách 10 ngày sau, để chống thiếu chất sắt lúc 3 tuần tuổi. Một số chế phẩm có chứa các yếu tố cần thiết để tạo hồng cầu như đồng, sinh tố B12…cũng rất hữu dụng.
Đối với heo con đực không làm giống, tiến hành thiến lúc 7 ngày tuổi. Lúc này dịch hoàn còn nhỏ, vết mổ nhỏ, mau lành. Nên cắt hai đường trên da bao dịch hoàn để dễ thoát chất dịch từ vết thiến, tránh ứ đọng gây viêm. Đối với heo cái không làm giống, để nuôi thịt thì không cần thiến.
Khi được 10 ngày tuổi, tập cho heo con ăn sớm để tránh khủng hoảng vì thiếu sữa mẹ trong tuần tuổi thứ tư (sữa mẹ giảm sau tuần thứ 3). Việc tập ăn giúp cho heo con biết ăn sớm. Người ta thường sử dụng các loại tấm, bắp, đậu nành rang xay hoặc nấu chín, có mùi thơm, nhét vào miệng heo con vài lần cho quen và luôn luôn để thức ăn tập ăn vào ổ úm hay máng bán tự động để heo con tự do liếm láp. Thức ăn tập ăn có thể không cần chứa hàm lượng protein cao vì heo con đang có nguồn sữa mẹ giàu dưỡng chất. Phải cho heo con làm quen với nguồn gluxit, lipit, chất đạm của các loại thực liệu thông thường để hệ thống tiêu hóa heo con sớm bài tiết các enzym tiêu hóa thích hợp.
Khi heo con bắt đầu ăn mạnh thì thay thế dần thức ăn tập ăn bằng thức ăn hỗn hợp.Nên cho heo con ăn tự do trong các máng bán tự động, tránh dùng thức ăn ẩm mốc. Nếu thức ăn nấu hoặc ẩm thì cho ăn theo bữa ăn, phần dư thừa phải được lấy đi để tránh sự lên men chua và thối. Nếu có điều kiện, cho ăn thêm thức ăn xanh càng tốt, nhưng phải rửa thật sạch để tránh nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
Một số thức ăn dạng bột có thể hòa lỏng cho heo con ăn. Thức ăn này có giá trị dinh dưỡng cao và phù hợp với heo con chưa có răng để nhai thức ăn viên trong 10 – 15 ngày tuổi.
Mặc dù sữa mẹ có chứa nhiều nước, nhưng cũng cần có núm uống cung cấp đầy đủ nước uống sạch cho heo con.
Chuồng trại phải ấm áp, khô ráo, tránh gió lùa mưa tạt. Trong tháng đầu heo con không cần tắm. Những lúc trời nóng oi bức có thể tắm heo con lúc 3 - 4 tuần tuổi vào trưa; nếu chuồng trại thông thoáng, tắm mát cho heo con là không cần thiết. Nếu nái cần tắm mát để tiết sữa nhiều, chú ý tránh làm ẩm ướt chuồng và heo con, nếu không heo con dễ bị lạnh và rối loạn tiêu hóa.
Cần phát hiện sớm những dấu hiệu bệnh ở đường hô hấp, tiêu hóa để sớm có biện pháp can thiệp kịp thời, giảm bớt tổn thất.
Sự tăng trưởng và sức kháng bệnh của heo con thời kỳ này phụ thuộc vào nái mẹ. Nếu heo nái được chủng ngừa đầy đủ, nuôi dưỡng tốt trong lúc mang thai và tiết sữa, biện pháp chăm sóc nái tốt, thì đàn heo con sẽ tăng trọng nhanh, ít bệnh tật. Nếu nái bị bệnh viêm vú, viêm tử cung sốt, bỏ ăn, kém ăn, viêm khớp…, đàn heo con thường bị ảnh hưởng xấu, gầy còm, tăng trọng kém, dễ bị tiêu chảy, tỷ lệ chết cao.
Heo con có tập quán liếm phân, nhất là ăn phân nái mẹ. Do đó vệ sinh chuồng kỹ, tránh đọng chất bẩn, phân, thức ăn hư mốc ở các hốc ngách, góc tường là cần thiết. Các vết nứt, lỗ thủng ở nền chuồng cần dặm lại trước khi nuôi nái đẻ và heo con vì những nơi này thường ứ đọng nước, phân, thức ăn sình thối, heo con rất thích ủi, ăn các chất này và dễ bị bệnh đường tiêu hóa, hô hấp…Các loại chuồng bằng sắt nếu không vệ sinh kỹ cũng bị vấy bẩn, sét rỉ, heo con cắn gặm cũng dễ bị nhiễm trùng.
Tập quán heo là vừa ăn, vừa uống, nên máng uống sẽ chứa nhiều cặn thức ăn dễ hư thối, ô nhiễm nước uống. Heo con có tập quán vào máng nước vừa tiểu vừa uống, hoặc vừa đi phân vừa uống. Một số heo con thích vào ổ úm để đi phân và đái, do đó ổ úm cần được vệ sinh kỹ. Từ tuần tuổi thứ ba người ta đóng kín không cho heo con vào ổ úm để tránh tình trạng heo con đi phân và đái trong đó.