Home » » Phương Pháp Chẩn Đoán Bằng Siêu Âm

Phương Pháp Chẩn Đoán Bằng Siêu Âm

Written By Chăn Nuôi on Friday, March 8, 2013 | 3:04 PM


Danh từ siêu âm chẩn đoán dùng để chỉ một phương pháp khám, ghi lại những thông tin dưới dạng các sóng hồi âm của tia siêu âm do một đầu dò phát vào cấu trúc cần khám.
Giới hạn trên của sóng âm có thể nghe được là 20.000 chu kỳ/sec, tức là 20 kilo Hertzs. Siêu âm là sóng âm có tần số trên giới hạn này nên tai người không nghe được. Siêu âm có tần số cao (sóng ngắn) có thể phân biệt được các vật khác nhau dưới 1mm, còn những tia có tần số thấp hơn, sóng dài hơn thì khả năng ấy kém hơn. Siêu âm ghi hình bằng cách dùng năng lượng được phản hồi. Nó ứng dụng nguyên lý sau: sự nhìn thấy bằng mắt và ghi nhận trên phim một vật thể là nhờ ánh sáng bắt nguồn từ năng lượng được phản chiếu từ vật thể đó. Đầu dò có chất áp điện đổi điện năng thành những xung động siêu âm và biến đổi siêu âm (sóng phản hồi) thành điện năng. Vì vậy khi siêu âm dội lại vào đầu dò thì sinh tín hiệu điện. Sóng siêu âm phóng ra từ đầu dò nếu đi qua môi trường thuần nhất thì chúng sẽ đi thẳng, nhưng sóng đó nếu tới  mặt tiếp giáp giữa hai
môi trường có độ vang khác nhau sẽ tuân theo định luật phản xạ, khúc xạ như ánh sáng. Năng lượng phản xạ tỷ lệ với tỷ trọng cấu trúc của môi trường nó đi qua và góc quét của tia siêu âm trên cấu trúc đó. Đầu dò thường xuyên phát sóng siêu âm theo lối cách quãng, mỗi khoảng phát là một thời gian cực ngắn, khoảng 1microsec. Giữa các khoảng phát, đầu dò lại thu sóng hồi âm biến thành tín hiệu điện. Thay đổi của năng lượng phản chiếu trở về làm thay đổi tín hiệu điện, nó được biểu diễn bằng sóng dao động có siêu độ thay đổi hay thành các chấm sáng có cường độ khác nhau. Hình ảnh siêu âm là tập hợp các sóng đó hay các chấm sáng đó.
Trong thiên nhiên một số loài vật có sự ghi hình bằng siêu âm theo nguyên lý đã trình bày như: dơi, cá heo, cá voi...
Do không truyền được trong không khí nên siêu âm ít được ứng dụng hằng ngày. Mãi đến thế chiến II, người ta mới áp dụng tính chất truyền được trong nước của siêu âm vào việc phát hiện tàu ngầm, máy rà soát SONAR, nhưng trong giai đoạn này, siêu âm là bí mật quân sự nên mãi tới năm 1956 mới được ứng dụng vào y học. Trong các thập niên 60, 70, siêu âm phát triển chậm vì gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật, hình ảnh siêu âm có sức thuyết phục kém. Đến thập niên 70, 80, nhờ sự phát triển của điện tử, điện toán nên hình ảnh siêu âm rõ ràng. Hiện tại, máy điện toán là bộ não của siêu âm. Từ đó siêu âm y học phát triển không ngừng vì nguồn siêu âm không độc hại và cho kết quả trung thực.
Với tác dụng sinh học không độc hại dưới đây, siêu âm được áp dụng trong điều trị:
- Tạo nên nhiệt lượng ở mặt phân cắt giữa hai cấu trúc khác nhau khi chùm siêu âm đi qua. Vật lý trị liệu lợi dụng tính chất này trong điều trị đau nhức xương khớp.
- Hiện tượng tạo khoảng trống giữa các phân tử của cấu trúc do chùm siêu âm phóng qua, chùm siêu âm này càng mạnh, cấu trúc càng không bền bỉ. Tính chất này, được áp dụng trong máy tán sỏi, cạo cao răng, dao mổ không chảy máu...
ở Việt Nam, siêu âm điều trị còn hạn chế do máy quá đắt nhưng siêu âm chẩn đoán thì rất phát triển vì nó vô hại, khám được nhiều lần. Hơn nữa, khám siêu âm linh động, cho lượng thông tin phong phú, có thể lưu trữ được.
Siêu âm được áp dụng để phát hiện các bệnh lý như sau:
1. Siêu âm não: áp dụng thuận tiện ở gia súc non qua thóp để phát hiện tụ máu não, não úng thủy, u não... tuy nhiên cũng được chỉ định ở gia súc lớn qua khe khớp thái dương, siêu âm não cho biểu hiện gián tiếp của khối choáng chỗ ở hai bán cầu.
2. Siêu âm mắt để phát hiện dị vật trong mắt, tìm dấu trong võng mạc, u sau nhãn cầu, dấu phù gai thị trong tăng áp lực nội sọ.
3. Siêu âm tuyến giáp để biết có bướu giáp không.
4. Đối với tuyến vú, siêu âm giúp phát hiện sớm các khối u trong vú khi còn quá nhỏ nên chưa sờ thấy và phần nào cho biết khối u đó lành hay ác tính (ung thư).
5. Siêu âm động mạch cảnh, phát hiện mảng xơ vữa động mạch hay hạch dọc động mạch cảnh; với siêu âm Doppler, có thể biết được tình trạng tưới máu của động mạch cảnh.
6. Siêu âm lồng ngực phát hiện tốt bệnh lý thành ngực, màng phổi. Do không truyền qua không khí nên vai trò của siêu âm hạn chế trong chẩn đoán bệnh lý phổi. Tuy nhiên nó phát hiện dịch màng phổi sớm hơn X quang, giúp phân biệt được viêm phổi và tràn dịch màng phổi. Đối với trung thất, siêu âm là một chỉ định không thể thiếu trong bệnh lý tim mạch. Siêu âm giúp chẩn đoán bệnh tim bẩm sinh ở gia súc non. Nó bổ sung cho X quang trong chẩn đoán u trung thất vì nó phản ánh phần nào bản chất khối u.
7. Đối với bệnh lý thuộc ổ bụng, siêu âm hơn hẳn X quang trong chẩn đoán bệnh của tạng đặc, tạng chứa dịch như gan, lách, tụy, đường mật, thận, hệ niệu nói chung, tuyến tiền liệt bàng quang, dịch ổ bung, mạch máu như phình hay dãn động mạch chủ bụng.
8. Về chuyên sản khoa , siêu âm là một chỉ định rất quan trọng:
Trong sản khoa:
- Siêu âm giúp chẩn đoán có thai sớm và chắc chắn;
- Chẩn đoán tuổi thai, theo dõi phát triển của thai;
- Phát hiện những bệnh lý khi mang thai như: thai ngoài tử cung, thai chết lưu, nhau bong non.
- Giúp chẩn đoán di tật bẩm sinh của thai.
Trong sản khoa: Các bệnh lý được phát hiện nhờ siêu âm như: u xơ tử cung, khối u buồng trứng, abcès phần phụ, ứ dịch trong vòi trứng, siêu âm còn theo dõi sự phát triển của nang trứng trong điều trị vô sinh.
Ngoài ra siêu âm còn được áp dụng trong chấn thương chỉnh hình đối với gân, cơ, xương, khớp.
Tóm lại siêu âm là một phương tiện chẩn đoán hiện đại giúp cho bác sỹ thú y có thể phát hiện được bệnh một cách nhanh chóng và chính xác. Với đặc tính linh động, vô hại và có thể khám nhiều lần, nhiều tạng phủ trong cùng một lúc, con vật hoàn toàn thoải mái và an toàn.
Nguồn: Chẩn đoán bệnh thú y
Chia sẻ bài viết: :
 
Thiết kế bởi: Free Blogger Templates | VNBLOGGER | Thư viện Online | Tin khuyến mại | Sổ tay Online Xem Phim: Phim Ánh Trăng
Copyright © 2016. Nông Nghiệp - By Blogger.com