2002, trang 511, nói về nhuộm răng như sau:
Từ điển Văn hoá cổ truyền Việt Nam, Hữu Ngọc chủ biên, Vũ Văn
Chuyên… Nhà xuất bản Thế giới, 2002, trang 511, nói về nhuộm răng như
sau:
“Phong tục người Việt cổ coi răng càng
đen càng đẹp. Trước khi nhuộm đen phải nhuộm đỏ. Thuốc nhuộm răng đỏ là
cánh kiến đỏ trộn với rượu rồi đun quánh như bột nếp. Quét bột này lên
mảnh lá chuối hột ấp vào răng trước khi đi ngủ. Làm nhiều lần cho đến
khi hàm răng bóng ánh nổi màu cánh gián. Thuốc nhuộm đen: phèn đen, vỏ
lựu khô, quế chi, hoa hồi, đinh hương nghiền nhỏ, hoà giấm hoặc rượu,
đun cho quánh như hồ dán. Quét lên lá chuối đắp lên răng như nhuộm đỏ.
Từ 5 đến 7 ngày thuốc mới bám vào răng, nổi màu đen thẫm rồi đen bóng.
Súc miệng bằng nước cốt dừa. Kiêng ăn thịt mỡ, cua cá, vật cứng, nóng.
Có khi chỉ nuốt cơm hoặc húp cháo. Kể cả nhuộm đỏ và đen, thời gian kéo
dài đến nửa tháng.
Răng đen đã đi vào ca dao:
Răng đen ai nhuộm cho mình
Để duyên mình đẹp cho tình anh say
Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng, răng đen
Thành ngữ: Răng đen hạt na.
Tạp chí Việt Nam Cultural Window số 6 và 7 tháng 9 và 10 1998 trang 38 bài Blackened teeth, tóm tắt nội dung như sau:
Nhuộm răng đen ở Việt Nam
Nhuộm răng đen ở Việt Nam
Nhai trầu là một phong tục lâu đời.
Người nhai trầu nhổ ra một nước đỏ sẫm. Nước này dần dần làm cho răng có
mầu đỏ nâu. Điêu tra ở làng Bạch Cốc, xã Thanh Lợi, tỉnh Hà Nam vào
táng 8-1996 cho thấy dân ở lứa tuỏi 35 – 50 nhai trầu nhưng không nhuộm
răng đen, hoặc do bắt chước mẹ và bà, hoặc để ấm khi làm đồng vào mùa
đông. Muốn có răng đen như hạt na thì phải nhuộm.
1. Làm sạch răng: Trong
3 ngày liền, sau mỗi bữa ăn, người ta làm sạch răng với vỏ quả cau và
bột than củi, sau đó súc miệng với nước pha dịch chanh hay giấm và nước
gạo và giữ vài lát chanh trong miệng một thời gian dài.
2. Nhuộm đỏ răng: Trong
3 đến 10 đêm liền một bột thuốc nhuộm đỏ bao gồm cánh kiến trộn với
dịch chanh hay giấm và nước gạo được đun nóng rồi phết lên 2 miếng lá
chuối hoặc 2 tờ giấy bản rồi đắp lên bề mặt của 2 hàm răng và ngậm miệng
suốt đêm. Sáng hôm sau súc miệng với nước muối. Sau đó thì răng có màu
đỏ nâu.
3. Nhuộm răng đen: Tiến
hành trong 3 đêm. Thuốc nhuộm gồm sulfat sắt trộn với vỏ quả lựu, vỏ
quế, hoa hồi và đinh hương, hoặc sulfat sắt, cánh kiến, cam thảo, cau,
rễ cây gỗ “bạch chỉ”, rễ cây sậy, địa hoàng và nhựa cây gỗ đàn hương.
Tất cả xay thành bột, trộn với nước và
nước gạo đun sôi rồi ninh nhỏ lửa với bột nếp thêm vào sau được một thứ
keo đen thơm. Cách nhuộm giống như nhuộm đỏ.
4. Bảo vệ màu. Quá
trình này mất 4 ngày bao gồm đun sọ dừa trên một ngọn lửa than củi nóng
để có một nước màu đen nổi lên trên. Nước này trải trên lưỡi dao trong
vài giờ sau đó đắp lên răng. Bề mặt của răng trở nên đen bóng. Hoặc bao
gồm sulfat sắt, sulfat đồng, cam thảo, quả cau, rễ cây gỗ Bạch chỉ và rễ
sậy.
5. Duy trì răng đen. 2 –
3 năm một lần, nhuộm lại, mỗi lần 5 phút để sửa lại màu đen bóng của
răng. Người nhuộm răng mới đầu dễ bị viêm lợi và môi và phải kiêng ăn
thức ăn béo, nóng và rắn để đảm bảo sự dính kết tốt nhất của keo trên bề
mặt răng.
1. Cánh kiến đỏ: là một
loại rệp. Tên khoa học: Laiccifer lacca Merr. Họ Cánh kiến đỏ
Lacciferidae. Nhựa là tổ của rệp cánh kiến đỏ, có màu nâu cánh gián
trông như những hạt kê kết lại thành từng mảng bao bọc quanh cành cây.
Bên trong tổ có màu đỏ tía. Trong nhựa cánh kiến đỏ chủ yếu là các chất
cao phần tử do lactit của acid shellolic và acid aleuritic. Chất màu của
cánh kiến đỏ chủ yếu là acid laccaic, một dẫn xuất của anthraquinon màu
đỏ. Nhựa cánh kiến đỏ là nguyên liệu chính của shellac pha vào vécni để
sơn.
2. Phèn đen: sulfat sắt.
Cây phèn đen, tên khoa học Phyllanthus
reticulatus Poir. Họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Dịch lá dùng chữa trị răng
lợi bị thương. Chảy máu nướu răng: dùng lá phèn đen phơi khô rồi ngậm.
3. Vỏ quả lựu: Tên khoa
học của cây lựu: Punica granatum L. họ Lựu Punicaceae.Vỏ quả lựu đông y
gọi là Thạch lựu bì, tên latinh: Pericarpium Granati. Chứa granatin,
acid betulic, acid ursolic, isoquercetin. Dùng trị lỵ ra huyết, đái ra
máu, băng huyết.
4. Quế chi: vỏ cành cây quế Cinnamomum cassia Presl. Họ Long não Lauraceae vỏ giàu tanin và chứa tinh dầu có nhiều acid cinnamic. Mùi thơm.
5. Hoa hồi. Cây hồi
Illicium verum Hook.f.et Thoms. Họ Hồi Illiciaceae. Bộ phận dùng: quả
hồi, chứa nhiều tinh dầu có anethol, ta quen gọi là “Hoa hồi” dùng làm
thơm thuốc đánh răng.
6. Đinh hương: nụ hoa
khô của cây đinh hương Sizygium aromatium (L.) Merr. et Perry = Eugenia
caryophyllata L. họ Sim Myrtaceae. Tinh dầu chứa eugenol dùng trong nha
khoa làm thuốc tê và diệt tuỷ răng.
7. Vỏ quả cau. Cây cau
Areca catechu L. họ Cau Arecaceae. Đông y gọi vỏ quả cau là Đại phúc bì
tên latim Pericarpium Arecae. Chứa arecolin, guvacolin, guvacin. Dùng
làm thuốc trong Y học cổ truyền.
8. Cam thảo. Glycyrrhiza uralensis Fisch. Họ Đậu Fabaceae. Rễ chứa glycyrrhizin. Có vị ngọt.
9. Rễ cây gỗ Bạch chỉ.
Vị bạch chỉ Angelica dahurica (Fisch. Et Hoff) Benth. et Hook. f. Họ Hoa
tán Apiaceae là cây thảo cao 1m còn cây gỗ Bạch chỉ là Bạch chỉ nam
Milletia pulchra Kurz. Họ Đậu Fabaceae. Cây to, cao 5 – 7m. Bộ phận dùng
là rễ củ. Củ tươi mài với nước gạo nước cơm bôi trị chảy máu.
10. Rễ cây sậy. Tên
khoa học Phragmites communis (L.) Trin. Họ Lúa Poaceae. Rễ có tên là Lô
căn. Loài sậy núi Arundo donax L. Họ Lúa Poaceae. Thân rễ chữa đau răng.
Măng sậy núi dùng trị đau răng.
11. Địa hoàng.
Rehmannia glutinosa Libosch. Họ Hoa mõm chó Scrophulariaceae. Bộ phận
dùng: rễ củ, sống gọi là sinh địa, chế biến gọi là thục địa, có màu đen
nhánh. Làm đen râu tóc.
12. Nhựa cây gỗ đàn hương.
Santalum album L. Họ Đàn hương Santalaceae. Lõi gỗ chứa tinh dầu có
santalol. Để trám răng người ta dùng nhựa sấy khô của cây giáng hương
Pterocarpus macrocarpus Kurz họ Đậu Fabaceae hoặc của cây giáng hương Ấn
Pterocarpus indicus Willd, cùng họ. Nhựa trích từ cây có màu đỏ sẽ đông
cứng sau vài giờ thường được gọi là kino.
Nhựa kino chứa một tanin riêng biệt là acid kino-tannic và 1 chất màu đỏ. Dùng để trám răng.
13. Nước cốt dừa. Cocos
nucifera L. họ Cau Arecaceae. Nước dừa tên latin Lac Cocoris. Nước dừa
là một dung dịch đẳng trương gồm chủ yếu là Glucoz fructoz, rất ít
saccaroz. Làm đen tóc. Nước dừa vô trùng dùng làm dịch truyền tĩnh mạch.
Chú ý: Ở Nhật Bản người
ta xưa kia cũng có phong tục nhuộm răng đen, bằng một vị gọi là Ngũ bôi
tử. Tên latin là Galla sinensis. Đó là những túi đặc biệt do nhộng của
con sâu ngũ bôi tử Schlechtendalia sinensis Bell gây ra trên cây muối
Rhus semi alata Murray họ Đào lộnhột Anacardiaceae. Chứa tanin gọi là
acid galotanic. Khi chất tanin của ngũ bôi tử tác dụng lên feric clorua
sẽ cho màu lam đen. Dung dịch 5 – 10% dùng súc miệng để điều trị các vết
loét trong miệng.
Vũ Văn Chuyên
Caythuocquy.info.vn